Phong Lăng đoán có thể bọn họ không hiểu tiếng Anh, thế nhưng cô cũng không biết ngôn ngữ của đất nước này. Lúc lái xe đi ngang qua thị trấn nông trường Gorjing nhỏ bé, cằn cỗi lại hoang vắng này, có không ít người già dẫn theo trẻ con vây xem bên cạnh, trong mắt không biết là hoảng sợ hay là tò mò.
Dù sao đây cũng là quốc gia chiến tranh, ai ai cũng đều sợ có kẻ từ bên ngoài đến quấy nhiễu.
Con đường phía trước không thể lái xe được nữa, Phong Lăng đành phải xuống xe, vì không để những người này sinh lòng phòng bị mình, cô lấy bánh bích quy và đồ ăn ra đưa cho đám trẻ xung quanh. Đám con nít hào hứng định đi qua, nhưng cả lũ lại bị những cụ già kia kéo vào lòng, sau đó đề phòng lôi ra xa, không cho phép bọn chúng tới gần cô nữa.
Chỉ có một cậu bé khoảng mười hai, mười ba tuổi với làn da vàng sẫm gầy trơ cả xương, có vẻ như không có ai chăm sóc đi tới. Hẳn là cậu rất đói bụng, lúc nhận thấy cô thật sự muốn cho bánh bích quy, bèn vội vàng nhận lấy, sau đó vội vàng bỏ ngay vào trong miệng.
Phong Lăng nhìn cậu bé, đưa thêm một chai nước cho cậu. Cậu bé gầy trơ xương nhận lấy, rồi ra sức ăn bánh bích quy và uống nước. Sau khi ăn sạch hai túi bánh bích quy, cậu bé cố sức nắm chai nước suối trong tay, sau đó lại mở to đôi mắt đen láy nhìn cô, cuối cùng mở miệng nói.
Vẫn là thứ ngôn ngữ Phong Lăng không hiểu.
Cô thì thầm bằng tiếng Anh với cậu ta: “Các em không hiểu chút xíu tiếng Anh nào sao? Hoặc là, có biết ngôn ngữ nào khác không?”
Bé trai nhìn cô hồi lâu, uống thêm một ngụm nước khoáng, rồi lại dùng ánh mắt đen láy nhìn Phong Lăng. Cô hơi khựng lại, sau khi hiểu ý lại đưa cho cậu hai túi bánh bích quy và hai chai nước.
Cậu bé lúc này mới vui mừng hớn hở ôm đồ ăn thức uống vào trong ngực, bỗng nhiên dùng tiếng Trung Quốc không quá trôi chảy nhưng miễn cưỡng vẫn có thể khiến Phong Lăng hiểu được nói: “Chị, có biết… tiếng Trung không?”
Phong Lăng giật mình: “Chị biết.”
Cậu bé gật đầu thật mạnh, đột nhiên chỉ chỉ con đường trong thị trấn nhỏ: “Nơi đó...”
“Nơi đó làm sao?”
“Có... Một bà cụ... biết… tiếng Trung Quốc.”
Nghe xong, Phong Lăng không hỏi thêm gì nữa mà gật đầu cảm ơn cậu bé. Cô đỗ xe bên cạnh một khoảnh đất trống để không ảnh hưởng việc ra vào của bọn họ, sau đó lại lấy một ít thức ăn cho bé trai, bảo cậu trông xe giúp một lát, sau đó giải thích mình không phải là người xấu, sẽ không làm hại bọn họ, bảo cậu thông báo mọi người ở nơi này không cần phải sợ cô, rồi bước nhanh về phía cậu bé chỉ.
Sau khi tới bên ngoài ngôi nhà đó, không ngờ lại trông thấy ở phía trước mảnh sân nhỏ có dán một chữ Phúc màu đỏ chỉ Trung Quốc mới có, thoạt nhìn hơi cũ, chắc là dán vào thời điểm năm mới, hiện tại đã dãi nắng rầm mưa thời gian dài, cả nền đỏ và các chữ màu đen đều đã hơi phai màu.
Hơn nữa xem ra chữ này là do chủ nhân của ngôi nhà này tự viết, nhìn không đẹp lắm, nhưng ít ra đúng là chữ Hán.
Phong Lăng gõ cửa. Qua hồi lâu, có lẽ sau bốn, năm phút mới có một cụ già khoảng hơn bảy mươi tuổi tóc hoa râm đi ra, lưng bà rất còng, phải ngẩng đầu lên nhìn cô. Bà cứ nhìn chằm chằm màu da và mái tóc của cô hồi lâu, thật lâu sau mới kinh ngạc nói bằng tiếng Trung Quốc: “Cô...”
“Chào bà ạ, làm phiền bà rồi.” Phong Lăng mở lời: “Ban nãy cháu nghe người ta nói ở đây có một bà cụ biết tiếng Trung Quốc, vì vậy đã đường đột tìm đến đây. Cháu rất xin lỗi vì quấy rầy đến bà, nhưng cháu có việc gấp, nên không biết làm thế nào mới...”
Thấy cô cũng xem như lễ phép, bà cụ gật đầu, không nhanh không chậm xoay người, chống gậy đi vào trong sân: “Vào đây ngồi đi.”
Phong Lăng rất sốt ruột, nhưng thấy cũng không thúc giục được bà cụ này, nên bèn đi thẳng vào.
“Gần đây, cái nông trường nhỏ tồi tàn này đúng là có chút thú vị... Nơi từ trước đến nay chưa từng có người Trung Quốc ra vào mà giờ lại có một người Trung Quốc tới...”
Phong Lăng nghe xong thì chân mày nhướng lên.
Lúc này bà cụ xoay người lại nhìn cô: “Cô có chuyện gì gấp à?”
“Cháu có một người bạn bị thương nặng trong cuộc chiến ở Jerusalem, hẳn là anh ấy đã bị cuốn theo dòng sông đằng kia. Tất cả mọi người đều cho rằng anh ấy đã chết, nhưng cháu không cam lòng, cũng không thể chấp nhận kết quả như vậy, lại phát hiện điểm cuối của dòng sông ở gần nơi này cho nên đã tìm tới đây, vì vậy cháu...” Phong Lăng ngừng một chút, sắp xếp lại cảm xúc và ngôn ngữ của mình: “Cháu tự hỏi không biết liệu anh ấy có còn ở chỗ này hay không nên muốn thử tìm xem, nhưng lại không hiểu ngôn ngữ giao tiếp ở đây, cũng không thể trao đổi bằng tiếng Anh. Nhưng cháu không ngờ lại có một bà cụ biết nói tiếng Trung...”
“À, lúc còn rất trẻ ta đã tới đây rồi.” Giọng bà cụ già nua, nói cũng chậm rì rì: “Lúc còn trẻ ấy à... Khi đó chúng ta còn chưa hiểu thế nào là tự do yêu đương, bị người trong nhà ép hôn, trong cơn tức giận ta bèn trốn ra ngoài, lánh sang Châu Âu, sau đó thì lưu lạc đầu đường xó chợ đến nơi này... Lúc ấy trong nông trường Gorjing này vẫn còn rất nhiều người, là một nông trường lớn rất sầm uất, nhưng về sau chiến tranh xảy ra quá thường xuyên, kẻ thì chết người thì chạy trốn, nên mới trở nên hoang vắng giống như hiện tại. Ta gả cho một người làm ruộng ở đây, có con, rồi có cháu, cứ như vậy sinh sống nhiều đời ở đây. Có phải cô đã tiếp xúc với đám trẻ con lang thang ở nơi này không, những đứa bé đó thường tới chỗ ta tìm cái ăn, nên cũng biết một vài câu tiếng Trung.”
Phong Lăng gật đầu: “Vâng.”
Bà cụ cũng gật đầu, sau đó cứ chống gậy đứng ở đó, như có điều suy nghĩ rồi hỏi: “Người cô muốn tìm, là một người đàn ông à?”