Bởi vậy, nửa đêm nửa hôm cô ta đến đây không chỉ là để đưa đồ ăn khuya.
Yên Vu thỏ thẻ: “Gia… A Vu nghĩ…”
“A Vu!”
Triệu Cảnh Diễm lên tiếng cắt lời cô ta, “Nếu ta để nàng ra khỏi phủ, nàng có đồng ý không?”
Yên Vu kinh ngạc, vội quỳ xuống đất, “Gia, cả đời này A Vu chỉ muốn ở bên cạnh gia, cho dù là làm nô tỳ cũng được, xin gia đừng đuổi A Vu ra khỏi phủ.”
Triệu Cảnh Diễm xoay cần cổ mỏi nhừ, trầm mặc một hồi mới ngập ngừng nói tiếp: “Không chỉ riêng nàng, những người khác trong phủ, gia đều sẽ thả đi.”
Yên Vu lập tức ngây ra, đáy lòng dâng lên một nỗi khiếp sợ.
Cô ta vào phủ bao năm nay, phụ nữ trong phủ chỉ có nhiều lên, chưa từng có ai được thả đi. Bây giờ vì Thái tử phi, đến cô ta mà gia cũng đuổi, không lẽ gia thật lòng yêu người con gái đó sao?
“Nàng hãy ngẫm nghĩ thử đi, gia không nói đùa.”
Yên Vu im lặng cụp mắt xuống, mãi sau mới ngẩng đầu lên, chậm rãi nói: “Gia muốn ép Yên Vu chết sao, rời xa gia rồi, một ngày Yên Vu cũng không sống nổi.”
Triệu Cảnh Diễm cau mày, có loại cảm giác như bị dây leo quấn quanh người, rất muốn vùng trốn.
Hoàn Hoàn chưa từng nói những lời như thế này, bất kể ở đâu, có hắn hay không, cô đều có thể sống rất tốt.
Cô như một cái cây có rễ cắm sâu xuống đất, gió thổi, mưa rơi, cô vẫn đứng thẳng với tư thế hiên ngang, khiến người ta không nhịn được muốn lại gần.
Hắn lạnh lùng nói: “Ai rời khỏi ai đều có thể sống được. Đứng dậy đi, cũng không còn sớm nữa, nàng về nghỉ ngơi đi.”
Yên Vu liên tục lắc đầu, nước mắt rơi lã chã, “Gia muốn đuổi A Vu đi, A Vu có chết cũng không đứng dậy.”
Mỹ nhân rơi lệ, đôi mắt đẹp chất chứa đau khổ, nhưng Triệu Cảnh Diễm chỉ muốn lẩn tránh, “Nàng coi lời nói của gia như gió thổi bên tai sao?”
Yên Vu lập tức ngừng khóc, cô ta vào phủ đã được tám năm, chưa bao giờ gia tỏ vẻ nghiêm nghị như vậy .
Cô ta lảo đảo đứng dậy, còn không hành lễ đã quay đầu chạy như bay ra ngoài.
“Gia, Yên Trắc phi khóc lóc bỏ đi rồi.” A Ly thò đầu vào.
Triệu Cảnh Diễm cười khẩy, “Kệ cô ta.”
A Ly lặng lẽ nhìn Thái tử: “Gia, dục tốc bất đạt. Nếu Hoàng thượng biết được cũng sẽ không đồng ý, chi bằng chậm lại một chút rồi tính tiếp.”
Triệu Cảnh Diễm trầm mặc một lúc, thở dài nói: “A Ly à, đợi sau này ngươi có người thương, ngươi sẽ biết có những chuyện đến trì hoãn và giả bộ ngươi cũng đều làm không được.”
A Ly cụp mắt xuống, không biết nói gì.
“Đi tìm một người thợ đáng tin bồi hai bức tranh này, bồi xong thì đưa đến Thanh phủ.”
A Ly hơi sửng sốt, rồi đáp: “Vâng, thưa gia! Đúng rồi, mồng Ba tháng Ba là sinh thần của lão tổ tông, ban nãy Lưu Trường Sử có đến hỏi nên tặng quà gì?”
Thoáng cái lão tổ tông đã sắp đại thọ bảy mươi tuổi!
Triệu Cảnh Diễm nghĩ ngợi một lát: “Lễ vật lần này nên trịnh trọng một chút.”
…
Sáng sớm ngày hôm sau.
Thành Tây có một con phố đồ cổ, cuối phố có một tiệm đồ cổ, chủ nhân của cửa tiệm là một thợ bồi tranh nổi tiếng khắp Kinh thành, họ Hạ tên Nhất.
Hôm nay ông ta vừa mở cửa tiệm, đã có hai vị khách dáng vẻ trông như là quan gia đến tìm. Vừa thấy người đến, mắt Hạ Nhất sáng lên, lập tức đóng cửa tiệm, leo lên xe ngựa.
Xe ngựa đi được chừng thời gian một chung trà, sau khi tiến vào phủ Thái tử, Hạ Nhất lập tức bước vào, đi qua mấy cái sân rồi dừng bước trước một căn phòng.
Bước vào phòng khách, Hạ Nhất thấy một người thanh niên trẻ tuổi, tuấn tú đã chờ sẵn ở đó, vội vàng hành lễ: “Tiểu nhân thỉnh an Ly gia.”
A Ly chỉ vào hai bức họa trên bàn: “Lão Hạ, hai ngày tới ông hãy đóng cửa tiệm, bồi hai bức tranh này trước cho ta.”
“Ly gia, xin để tiểu nhân xem thử trước!” Quy tắc của việc bồi tranh là nhất định phải nhìn thấy bức tranh trước, sau đó mới có thể đồng ý.
A Ly đặt tay lên bức tranh, nghiêm mặt nói: “Xem thì được, nhưng cho dù ngươi nhìn thấy thứ gì thì cũng phải chôn chặt trong lòng. Nếu dám tiết lộ nửa lời ra ngoài, cẩn thận cái đầu của ngươi.”
Hạ Nhất cười nói: “Ly gia quen biết lão Hạ tôi cũng không phải ngày một ngày hai, tôi là người thế nào, Ly gia còn không yên tâm sao.”
Bấy giờ A Ly mới bỏ tay ra khỏi bức tranh, “Mau lên, Thái tử gia đang đợi.”
Hạ Nhất mở bức tranh ra, liếc nhìn một cái đã có tính toán trong đầu, híp mắt nói: “Mấy ngày tới tôi sẽ ở lại phủ Thái tử.”
Ông ta là một người thông minh.
A Ly gật đầu nói: “Mọi thứ đều đã chuẩn bị hết rồi, bắt đầu đi.”
Bồi tranh cũng không phải là một việc khó, ba ngày sau, Hạ Nhất cầm tiền thưởng quay về cửa tiệm, lúc định cất ngân lượng vào trong lòng, đột nhiên cổ ông ta đau nhói, lập tức mất đi ý thức.
Còn lúc này, hai bức tranh đã được bồi xong đang đặt trên bàn của Triệu Cảnh Diễm.
Hắn ngắm nghía một hồi, trong lòng hơi luyến tiếc, “A Ly, ngươi thấy bức tranh này thế nào?”
A Ly liếc nhìn rồi đáp: “Gia, A Ly không hiểu tranh, chỉ có cảm giác Lục tiểu thư còn xinh đẹp hơn cả người ở trong bức tranh này.”
Triệu Cảnh Diễm mỉm cười, “Coi như ngươi thông minh. Người đâu, trải giấy, mài mực.”
“Gia, người định…”
Triệu Cảnh Diễm không đáp lời, nhấc bút vẽ vài nét trong không trung, sau đó mới đặt bút xuống tờ giấy đã được trải phẳng phiu.
Vẽ xong, hắn cuộn bức tranh ban đầu lại, “Mang qua cho Lục tiểu thư.”
“Vâng thưa gia.”
“Chờ chút!”
A Ly dừng bước, “Gia còn có gì dặn dò ạ?”
“Mang nhãn trong cung ban thưởng đến cho Lục tiểu thư.” Triệu Cảnh Diễm phất tay.
“Vâng.”
A Ly vừa đi được mấy bước lại vòng trở lại.
“Chuyện gì?”
“Gia, trong cung có người đến, Hoàng thượng cho gọi người vào cung ạ.”
Triệu Cảnh Diễm nghiêm mặt hô: “Người đâu, thay y phục cho gia.”
Triệu Cảnh Diễm vào trong nội điện, thấy hai vị đứng đầu Lễ bộ và Khâm Thiên Giám cũng có mặt, hắn đã đoán được mấy phần, bước lên trước hành lễ.
Bảo Khánh đế giơ tay, ra hiệu cho hắn đứng dậy, “Lão Bát, Khâm Thiên Giám đã chọn được mấy ngày tốt, con tự xem đi.”
Triệu Cảnh Diễm cười nói: “Phụ hoàng định đoạt là được ạ, lão Bát nghe theo phụ hoàng.”
Bảo Khánh đế hừ một tiếng: “Mùng Chín tháng Tư là một ngày đẹp.”
Còn hai tháng nữa là đến mùng Chín tháng Tư, Triệu Cảnh Diễm hơi kinh ngạc, vội vàng như vậy, rốt cuộc là phụ hoàng vẫn không yên tâm về hắn!
Không đợi hắn lên tiếng phản đối, Lễ bộ Thượng thư đã bày mặt đau khổ nói: “Hoàng thượng, thời gian gấp gáp quá ạ.”
“Phụ hoàng, hôn sự của nhi thần cần tiến hành tam mai lục lễ, nhất định phải làm thật ổn thỏa, không thể để người đời chê cười, chi bằng lùi ngày lại một chút.” Triệu Cảnh Diễm nghiêm trang nói.
Bảo Khánh đế không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn Thọ vương, như muốn dò xét thật giả trong lời của hắn.
Giám chính Khâm Thiên Giám thấy vậy bèn vội cười nói: “Hoàng thượng, ngày Hai mươi tháng Năm cũng là một ngày cực tốt, cuối Xuân đầu Hạ, không lạnh không nóng, mưa cũng ít, rất thích hợp cho ngày thành hôn của Thái tử ạ.”
Bảo Khánh đế lại hừ một tiếng: “Lão Bát, con thấy sao?”
“Lão Bát thấy thích hợp ạ.”
Bấy giờ Bảo Khánh đế mới tỏ ra hơi vui vẻ, “Nếu vậy thì hạ chiếu chỉ bố cáo thiên hạ đi.”
“Vâng, Hoàng thượng!”
“Các ngươi đi đi, lão Bát ở lại.”
“Chúng thần xin cáo lui!”
Hai người kia đi rồi, nội điện lại yên tĩnh trở lại, đúng lúc này Lý công công bưng thuốc vào, Triệu Cảnh Diễm tiến lên nhận lấy, đích thân thử thuốc.
“Phụ hoàng, có thể dùng thuốc rồi.”
Bảo Khánh đế vẫn luôn quan sát hắn, ngài nhận lấy thuốc, chầm chậm uống hết, sau đó lại súc miệng rồi mới chỉ vào chiếc ghế trước giường: “Con cai quản việc triều chính có gặp khó khăn gì không?”
Triệu Cảnh Diễm cười đáp: “Việc có khó đến mấy, nhi thần cũng có thể ứng phó được, phụ hoàng bảo trọng long thể mới là việc quan trọng.”
Trong mắt Bảo Khánh đế có ý tán thưởng.
Cuối cùng thì lão Bát cũng đã trưởng thành, ngày trước một khi chịu ấm ức, hắn liền ôm chân ngài khóc lóc om sòm, bây giờ trở thành Thái tử, cũng có trách nhiệm hơn.
“Chuyện của Hộ bộ, đến đây coi như kết thúc, không cần phải điều tra tiếp nữa, dẫu sao nó cũng là huynh trưởng của con, tha được cho ai thì cứ tha. Kẻ làm vua, biết cân nhắc lợi hại là một chuyện rất quan trọng.”
Triệu Cảnh Diễm biết phụ hoàng đang nói đến chuyện Thụy vương tham ô ngân lượng, bèn nói: “Nhi thần cũng có ý này.”
Bảo Khánh đế hài lòng nói: “Con đường cai quản đất nước, thần dân và thiên hạ đều có rất nhiều chú ý, từ giờ trở đi, mỗi ngày con hãy đến chỗ trẫm một canh giờ.”
Triệu Cảnh Diễm hiểu rõ phụ hoàng làm vậy là muốn dành thời gian chỉ dẫn cho mình, bèn quỳ xuống nói: “Đa tạ phụ hoàng.”
Hoàng đế nhắm mắt lại, thầm thở dài, sau đó mới mở mắt nói: “Nghe nói con và con bé đã đi ngắm hoa đăng hôm Tết Nguyên tiêu?”
Triệu Cảnh Diễm cười đắng chát, “Không qua được mắt phụ hoàng, là nhi thần ép cô ấy đi, rốt cuộc là trong lòng vẫn không buông xuống được, muốn gặp cô ấy một lần.”
Thẳng thắn như vậy, Bảo Khánh đế vô cùng kinh ngạc, ngài vỗ vai hắn: “Con quá giống mẫu phi con về phương diện tình cảm.”
Triệu Cảnh Diễm ngẩn ra, không nói lại câu nào.
“Hậu cung của trẫm có ba ngàn mỹ nữ, muôn hình muôn vẻ, ai nấy đều tiến cung vì gia tộc sau lưng mình, riêng chỉ có mẫu phi con là tới vì trẫm.”
Trong ánh mắt của Bảo Khánh đế có sự quyến luyến, “Mẫu phi con xuất thân từ Tưởng gia, trong xương cốt đã có sự thanh cao của người đọc sách. Nàng thích con người của trẫm, trong lòng chỉ mong cùng trẫm bên nhau trọn đời trọn kiếp, có phải nghe rất nực cười không, trẫm là một quân vương.”
Triệu Cảnh Diễm gượng cười.
“Trẫm là phu quân của nàng ấy, có thể yêu chiều nàng ấy hết mực, nhưng trẫm là một quân vương, không thể quá sủng ái ai, cũng không thể quá lạnh nhạt với ai. Mẫu phi con… u uất không vui, cuối cùng bệnh tật triền miên.”
Bảo Khánh đế đau đớn, ngài nhắm mắt lại, trước mắt ngài xuất hiện hình ảnh của một người phụ nữ. Người đó có đôi mắt rất tĩnh lặng, hàng lông mày thanh tú, dung nhan như hoa, vô cùng kiều diễm.
Triệu Cảnh Diễm rơi nước mắt, trong lòng hắn luôn cảm thấy cái chết của mẫu phi có phần khuất tất, nào ngờ hóa ra lại là vì nguyên nhân này.
Yêu đến sâu đậm, trong mắt không chứa nổi một hạt bụi, nhưng rồi lại thích người đó, vui sướng, đau khổ, ghen tuông, thỏa hiệp, không cam lòng… để rồi không thể giải thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đáng buồn này.
Bảo Khánh đế mở mắt, khẽ than thở: “Tình cảm sâu đậm quá sẽ không được lâu bền, quá thông minh sẽ dễ tổn thương. Dẫu sao nàng ấy cũng đi rồi, trong lòng trẫm vô cùng đau khổ. Trong thâm cung này, không còn ai đến chỉ vì con người trẫm, không vì mưu cầu thứ gì, chỉ là vì yêu thương trẫm.”
Bấy giờ Triệu Cảnh Diễm mới hiểu ra, phụ hoàng cưng chiều hắn, dung túng hắn là vì đâu. Hắn không nói gì, chỉ trầm ngâm nhìn Hoàng đế, trong đầu hiện lên một bóng hình chồng lên dáng vẻ của mẫu phi trong trí nhớ hắn.
Cô và mẫu phi của hắn thật giống nhau, mà cũng thật khác nhau.
Mẫu phi thỏa hiệp vì tình yêu, nhưng lại không được viên mãn, chỉ có thể uất ức mà chết.
Còn với tính cách của cô, chỉ sợ cô thà làm ngọc vỡ cũng không nguyện làm ngói lành để rồi sống nhân nhượng. Cô sẽ dứt áo ra đi, sau đó người nơi chân trời, người nơi góc bể, không bao giờ gặp lại.